Thursday, December 5, 2013

Bao thêm mới vào giờ Việt Nam có “làng thần kỳ”?.

Vừa qua

Bao giờ Việt Nam có “làng thần kỳ”?

Giỏi giang. Chỉ khoảng 3%. Cũng áp dụng những tiêu chuẩn an toàn. Giảm đáng lo ngại. Bấp bênh. 70% dân số là dân cày nhưng giờ giá trị sản xuất nông nghiệp lại rất thấp và ngày càng giảm sút; dân cày thì đa phần nghèo túng.

Chẳng thể dựa vào tự nhiên để tăng trưởng được nữa. Nguồn lực vô tận độc nhất để thúc đẩy tăng trưởng là khoa học công nghệ. Bán được nhiều. Làm được điều này thì kỳ tích của ngôi làng Karakumi bên nước Nhật không còn là ước mơ xa xăm mà sẽ trở nên hiện thực ở nước ta trong ngày mai không xa. Khách người Nhật tham quan giàn dâu tây Nhật ở HTX Trung Tín.

Hương Lan/VOV1. Để đảm bảo uy tín của thương hiệu rau xà lách làng Karakumi. Những làng rau. Chỉ sinh sản nông nghiệp được bốn tháng mỗi năm. Nhật Bản có đất đai khô cằn và khí hậu hà khắc. Không thiếu những cán bộ nông nghiệp tận tâm. Người nông dân vì cái lợi trước mắt.

Không thể nhân rộng ra được. Cộng tác xã rau an toàn sớm “chết yểu”. Cùng với đó. Câu chuyện về ngôi làng “thần kỳ” bên nước Nhật khiến chúng ta không khỏi suy ngẫm và có những so sánh về sinh sản nông nghiệp hiện nay ở nước mình. Dân cày ở đây đã có thu nhập hàng đầu Nhật Bản 250. 2 tỷ đồng). Do đó. Thế nhưng những mô hình xây dựng.

/. Đơn giản là họ sản xuất ra sản phẩm tốt nhất có thể. Điều đó cho thấy. Còn sau đó khi dự án kết thúc. Đất canh tác mỡ màu. Từ một trong những làng nghèo nhất nước. Đời sống người dân nghèo đói. Làm sao để nâng cao giá trị sản phẩm nông nghiệp.

Còn nước ta. Đất đai mỡ màu. Công nghệ cao và tính kỷ luật trong sản xuất là chìa khóa quan trọng để mỗi năm mang về cho làng Karakumi 150 triệu USD từ trồng rau.

Việt Nam cũng không thiếu những nhà khoa học giỏi trong nông nghiệp. “Làng thần kỳ” là cách người Nhật trân trọng gọi làng Karakumi thuộc tỉnh Nagano. Rồi cả hệ thống khuyến nông từ trung ương đến thôn bản. Sự “thần kỳ” của ngôi làng thuần nông này không phải ở số tiền đáng mơ ước mà là số tiền đó được làm ra trên mảnh đất khô cằn bậc nhất nước Nhật. Nếu nông dân nào làm sai những quy định sinh sản rau mà cả làng đã hợp nhất thì người đó bị cấm sản xuất.

Chúng ta cũng có những ngôi làng trồng rau có tiếng. Chuyển giao cho nông dân chỉ được thời gian đầu. Nông dân cần thay đổi phương cách sinh sản. Đà Lạt (Ảnh: báo Lâm Đồng) Có thể nói. Nông nghiệp đã tăng trưởng hết giới hạn khi hàng chục năm nay nặng về phát triển theo chiều rộng. Thế nhưng giá trị thu được từ sinh sản nông nghiệp lại rất thấp. Phì nhiêu; khí hậu tiện lợi; dân cày Việt Nam chăm chỉ.

Hai nông dân Nhật Bản đến vùng trồng rau Đà Lạt (Lâm Đồng) để tìm nơi có thể ứng dụng mô hình và công nghệ cao của “làng thần kỳ” trong trồng rau. Phải hướng tới chất lượng. Thuốc kích thích vô tội vạ miễn rau lên nhanh. Để có nhiều những ngôi “làng thần kỳ” như thế ở nước ta? Ngôi làng “thần kỳ” Karakumi.

Chỉ bằng trồng rau. Sau hơn 20 năm tụ tập áp dụng công nghệ cao đã trở thành ấm no hàng đầu tại Nhật. Thương hiệu và gắn kết thị trường. Hoàn toàn không gây hại cho con người và đáp ứng cao hơn các quy định an toàn thực phẩm của Nhật. Với nền nông nghiệp ngàn đời. Nâng cao thu nhập cho nông dân? Theo dự báo. Nếu không có kinh phí hỗ trợ thì mô hình cũng kết thúc theo. Nông nghiệp không phải thế mạnh của Nhật Bản mà những dân cày nước này đã làm được những kỳ tích như thế.

Tiêu chuẩn rau an toàn mà làng ứng dụng không phải là những chứng nhận tiêu chuẩn toàn cầu. Tăng trưởng năm 2013 của ngành nông nghiệp chỉ khoảng 3%. Điều đau đáu của ngành nông nghiệp và bà con nông dân giờ là làm sao để tăng giá trị sinh sản.

Thế nhưng từ sản xuất đến thị trường không được kiểm soát đến nơi đến chốn. Thời kì còn lại chẳng thể sản xuất do tuyết phủ. Thế nhưng như có phép nhiệm màu. Nhật Bản. Ông trưởng làng thiết lập kỉ luật nghiêm ngặt. Dùng hóa chất. 000 USD/hộ/năm (tương đương với 5.

No comments:

Post a Comment