Biết nó giờ đây đã ổn định cuộc sống, nghề tử tế, ông không khỏi mừng trong lòng
Tôi rời xóm kẹo kéo lúc xế trưa, trời lại phơ phất mưa. Thôi thì, ngày nào anh em tụi nó còn muốn làm nghề thì tôi vẫn làm”.
Hai căn lều này cũng được dựng theo kiểu nhà sàn nhưng bốn phía che bằng bạt nhựa, nên trong lều lúc nào cũng lờ nhờ tối. Mỗi khi nói về ông, Điền, Thiện, Bi đều dành cho ông niềm kính trọng rất đặc biệt, hơn cả tình cha con. Theo nghề từng ấy năm, căn nhà nhỏ của ông ở quận 4 để dành cho thuê lấy tiền nuôi con ăn học cũng bay theo những lần chuộc xe kẹo kéo.
Cảnh hai bên càng đương đại, sạch sẽ và chắc chắn bao lăm càng làm nổi bật cái nhếch nhác, trợ thì của xóm kẹo kéo nói riêng và người dân nơi đây nói chung. ” Ông “bầu” sa cơ Chân dung ông “bầu” kẹo kéo Xóm kẹo kéo nằm lọt thỏm trong con hẻm lầm lội 604/15E đường Trần Xuân Soạn, phường Tân Hưng, quận 7, giữa dự án Sunrise City (đường Nguyễn Hữu Thọ) và khu dân cư Trung Sơn với những tòa nhà cao tầng, biệt thự… cạnh rạch Ông Lớn.
Cũng chính cuộc sống nơi dãy trọ này đã đẩy đưa ông gặp anh Hải kẹo kéo. Tiếng người ơi ới gọi nhau ra giở trái cây lên bờ. Chừng ấy con người là chừng ấy cảnh ngộ, chừng ấy mảnh đời mà không bút mực nào có thể trình bày hết. Cuộc sống khấm khá dần, ông mở trại làm cây giống ở tỉnh Bình Thuận, niềm vui chưa được bao lâu thì trại cây giải thể, ông lại về TP.
Hai là con cái học hành tới nơi tới chốn, có cuộc sống đỡ khó nhọc hơn ông. Mỗi khi về lại Cần Thơ thăm người mẹ đã ở cái tuổi gần đất xa trời, ông chẳng bao giờ dám kể với mẹ rằng ông sống ở thị thành và kiếm cơm bằng nghề kẹo kéo. Những điều tưởng nghe đâu vụn vặt ấy đã khích lệ và yên ủi ông, giúp ông bám nghề đến hôm nay.
Cách chuyện trò và nghĩ suy của người đàn ông 48 tuổi này gợi cho người đối diện cảm giác ông là người đầy nghĩa vụ và nhiều nỗi lo, bởi ông không chỉ bận tâm cho cuộc sống của gia đình mình mà còn lo nghĩ cho cuộc sống của những người lao động nghèo. Điền đã lủi đi đâu mất. Những tháng mưa, anh em không đi bán được, mình cũng phải lo cơm cháo tử tế chớ đâu bỏ anh em được”, ông thanh minh.
Bếp nước, rổ rá và chén dĩa đều để ở ngoài trời. Bám trụ với nghề “Bếp ăn” ngoài trời, những căn lều lụp xụp nơi xóm kẹo Mười mấy năm theo nghề kẹo kéo, ông đã nhận và đào tạo không biết bao nhiêu chàng trai nghèo ham ca hát nhưng không có điều kiện học hành.
Kẻ đổi nghề, người bôn ba, người còn lại cũng rơi vào hoàn cảnh “bỏ không được mà không bỏ cũng không xong.
Học được một năm thì ông mạnh bạo vét số tiền bồi thường còn lại sắm sửa đồ nghề và bắt đầu kết nạp môn đồ. Cá biệt có cậu bé quê ở Phú Yên theo ông từ năm 14 tuổi, làm nghề được 2 năm thì “cuỗm” luôn cái xe của ông đem về quê.
Tiếng người í ới gọi nhau ra giở trái cây lên bờ. Lều trống huơ trống hoác, chẳng có gì ngoài mấy bộ áo quần. Ông tiền vay bạc hỏi, cùng Điền ra tận Phú Yên chuộc xe và bảo lãnh cho nó về với gia đình. Trần Vương Long đặt chân lên TP
Ba anh em Điền, Thiện, Bi sẽ ra sao? Những lúc ông cùng quẫn, họ cũng đã sẵn lòng viện trợ, giờ làm thế chẳng khác nào đẩy người ta vào đường cùng.
Tôi rời xóm kẹo kéo lúc xế trưa, trời lại phơ phất mưa. Hỏi bây giờ ông mơ ước điều gì nhất? Ông cười buồn bảo có đến ba mơ ước. Người có điều kiện hơn thì dịp Tết lại về thăm.
Rồi những Nghĩa, Trường… cùng nhiều cái tên mà ông không thể nào nhớ hết, dù ở TP. Tưởng đơn giản vậy nhưng mỗi bộ đồ nghề cũng ngốn mất của ông từ 15 đến 20 triệu đồng. Nhưng đấy không còn là miền quê yên ả như người ta vẫn nghĩ mà đầy nặng về nỗi lo miếng cơm manh áo. HCM mà còn bởi cái tâm làm nghề của họ. “Trung bình mỗi bữa, tôi có khoảng 500 ngàn đồng từ việc đi bán của các môn đồ, lo tổn phí ăn uống cho gia đình và các đồ đệ cũng gần hết phân nửa, rồi tiền điện, nước mỗi tháng, thuốc thang cho anh em mỗi khi ốm đau, chuyện học hành của con cái.
Sát nhà ông Long, một chiếc ghe máy chở đầy dừa và chuối đang từ từ cập bến. Người thì đến với ông vài tháng học nghề rồi đây riêng, người thì làm một hai năm để kiếm chút vốn, người thì gắn bó lâu năm như Điền, Thiện, Bi với đủ chuyện vui buồn, sướng khổ.
“Đây là nghề chân chính, tôi không tủi hổ nhưng tôi sợ mẹ tôi lo âu và thêm bệnh”, ông chia sẻ. Tạm kết Kế bên lều của ông Long là hai chiếc lều của vợ chồng Thiện, Bi với đứa con lên hai. Điền đã lủi đi đâu mất. Một là mong nhà nước có chính sách gì đó hỗ trợ người lao động nghèo, đặc biệt là những người buôn gánh bán bưng để họ có thể ổn định cuộc sống.
Tôi tự hỏi không biết họ xoay trở như thế nào để vợ chồng con cái có thể ngả mình được vào buổi đêm. Thấy ông có tình cảnh cùng cực, phải quang gánh nuôi con ăn học, anh Hải đã không ngần ngại truyền nghề và còn nhường luôn Điền, đồ đệ ruột của anh lại cho ông.
HCM từ năm 25 tuổi và bôn ba khắp nơi làm đủ nghề để kiếm sống, từ bốc xếp, làm hồ, mua bán cây giống. Nhà của ông “bầu” kẹo kéo Trần Vương Long là căn lều khá nhất trong ba căn lều của xóm kẹo kéo, dựng theo kiểu nhà sàn, bốn phía đóng tôn, rộng chừng 10m2. Nghe người bạn giới thiệu, ông sang quận 7 mua một mảnh đất ven sông và dựng tạm vài phòng trọ cho dân cần lao thuê để kiếm đồng ra đồng vào trang trải chi phí sinh hoạt và chuyện học hành cho con.
HCM cùng vợ buôn bán rau củ quả tại bến Chương Dương. Thấy nghề kẹo kéo hay hay, nghĩ rằng sẽ kiếm sống đắp đổi qua ngày được nên quyết định làm chứ ông không nuôi mộng làm giàu, kiếm chác từ việc bóc lột sức cần lao của người khác.
Nhưng đấy không còn là miền quê êm ả như người ta vẫn nghĩ mà đầy nặng về nỗi lo miếng cơm manh áo. HCM hay ở tỉnh, còn hoặc không còn trụ với nghề kẹo kéo, thảng hoặc vẫn gọi điện hỏi thăm sức khỏe ông. Ông bảo có những lúc thấy nản quá muốn “giải nghệ” để tìm một việc khác, nhưng mỗi khi nghĩ đến đó ông lại thấy không yên lòng. Chính cách làm nghề tận tâm, thương tình “môn sinh” như con cái trong nhà nên có khá nhiều “lính” của các bầu kẹo kéo khác biết tiếng, xin “gia nhập” đội quân kẹo kéo của ông nhưng ông đều từ khước, bởi theo ông: “Làm thế là cướp mất chén cơm của người ta”.
Tôi những tưởng mình đang ở một miền quê nào đó
Người thì đến với ông vài tháng học nghề một mai riêng, người thì làm một hai năm để kiếm chút vốn, người thì gắn bó lâu năm như Điền, Thiện, Bi với đủ chuyện vui buồn, sướng khổ.
Sát nhà ông Long, một chiếc ghe máy chở đầy dừa và chuối đang từ từ cập bến. Một tủ xống áo, một chiếc bàn xếp chất đầy sách vở của cô con gái út và bày nhan nhản kẹo cao su.
Đồ vật đáng giá nhất trong căn nhà có lẽ là chiếc tivi đời cũ với cái đầu đĩa bạc thếch và sây sát. Vào những năm cuối thế kỷ 20 đầu thế kỷ 21, bước vào nghề kẹo kéo không ai không biết và nể phục bốn cái tên: Sơn “xiếc”, Địa, Hải, Long, không chỉ vì họ là những người chủ xướng nên nghề kẹo kéo ở TP.
Mười mấy năm theo nghề kẹo kéo, ông Trần Vương Long đã nhận và đào tạo không biết bao nhiêu chàng trai nghèo đam mê ca hát nhưng không có điều kiện học hành. Không ít lần biết đồ đệ qua mặt mình với đủ trò, đổ không đủ xăng, lấy thêm kẹo bên ngoài để bán, ông đều nhắm mắt xuôi tay cho qua, bởi theo ông, “nó cũng có cái khó của nó”.
Hỏi sao lúc ấy ông lại chọn nghề kẹo kéo? Ông cười buồn bảo, khi nhà bị giải tỏa, mất thế buôn bán, ông cảm thấy lúng túng, không biết làm gì để kiếm sống. Trong câu chuyện với tôi, ông luôn kiêu hãnh khoe về truyền thống cách mệnh của gia đình để rồi sau đó, ông luôn tự trách mình đã không đạt được thành công như bác mẹ kỳ vọng mà phải lăn lộn mưu sinh ở đất Sài Gòn.
Đó cũng chính là lý do khiến Điền đã đôi lần nghĩ đến việc ra làm riêng cũng đành gác lại bởi: “Tình thầy trò mười mấy năm gắn bó, cực khổ khó nhọc có nhau, giờ chú đang gặp khó khăn, mình ra riêng coi không được”. Mỗi bộ đồ nghề gồm một chiếc xe máy cũ, tuy cà tàng nhưng máy móc phải ngon, rồi thùng, loa, đĩa, âm-pli chỉnh âm cùng một đôi thứ vặt vãnh khác.
Nó bị công an bắt ngay sau đó. Tôi nghĩ không phải như Điền vẫn mặc cảm “ai thèm thương em chị ơi”, mà bởi cái cảnh nghèo ấy đã khiến Điền ít nhiều ngại nghĩ đến chuyện vợ con.
Khác với hình dong của tôi, “bầu” Long có bộ mặt hiền từ, ánh mắt lúc nào cũng khắc khổ như ẩn chứa quá nhiều thăng trầm của cuộc sống mà một con người đã lăn lộn, trải đời, từ thượng vàng đến hạ cám. Năm 2000, đại lộ Đông Tây khởi công, căn nhà của vợ chồng ông ở bến Chương Dương thuộc diện giải tỏa.
Cầm số tiền đền bù trên tay, ông lúng túng không biết làm gì. Chừng ấy con người là chừng ấy cảnh ngộ, chừng ấy mảnh đời mà không bút mực nào có thể biểu thị hết. “Một thân một mình thì không sao, còn vợ con chúng nó nữa. Tùy sức và khả năng của từng người mà có bữa bán nhiều bán ít, ông không bao giờ bắt ép hay ra quy định mỗi bữa phải được bao lăm. Thời thế thay đổi, bộ tứ ấy giờ đây cũng rệu rã.
Ba là mảnh đất nơi ông ở nể còn thuộc diện quy hoạch treo nữa để có thể dựng cái nhà đàng hoàng hơn cho mấy anh em ở. Từng mảnh đời cùng cực ấy cộng sinh trong một môi trường sống buồn vui lộn lạo, mà nếu không có tình thương, lòng bao dong và định hướng của ông Long, hẳn họ đã không thể vượt qua được. Tôi những tưởng mình đang ở một miền quê nào đó.
Nghe đâu, nghề kẹo kéo vận vào ông như một cái nghiệp chứ nếu bản thân ông được giữ một bổn phận nào đó có lẽ đời sống của người lao động sẽ được trông nom hơn. Trong 3 môn đệ của ông thì chỉ độc nhất có Điền là chưa có gia đình. Liệu hy vọng ấy có xa xăm quá chăng? Theo Dòng Đời.
Đó cũng là điều khiến ông buồn tủi và cắn rứt nhất. Viết đến đây, tôi cứ nuôi trong lòng mình tia hy vọng, một ngày nào đó, những con người lao khổ, phải bôn ba nơi này có được một mái nhà vững chãi, một công việc chỉ phụ thuộc vào bản thân họ để con cái họ được học hành đến nơi đến chốn và có được cuộc sống đỡ vất vả hơn cuộc sống của ba má nó hiện nay.
No comments:
Post a Comment